Kết quả và hệ quả Chiến_tranh_Trung_–_Nhật

Kết thúc Chiến tranh Thái Bình Dương và sự đầu hàng của quân Nhật ở Trung Quốc

Cuộc diễu hành chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ hai vào ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Trùng Khánh

Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh bằng cách tấn công Nhật Bản bằng vũ khí mới, còn Liên Xô thì tổ chức một chiến dịch lớn vào Mãn Châu. Vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, máy bay ném bom B-29 của Hoa Kỳ, Enola Gay đã thả quả bom nguyên tử đầu tiên được sử dụng trong chiến đấu xuống Hiroshima, giết chết hàng chục nghìn người và san phẳng thành phố. Vào ngày 9 tháng 8 năm 1945, Liên Xô từ bỏ hiệp ước không xâm lược với Nhật Bản và tấn công Nhật Bản ở Mãn Châu, thực hiện cam kết tại Hội nghị Yalta là tấn công Nhật Bản trong vòng ba tháng sau khi kết thúc chiến tranh ở châu Âu. Cuộc tấn công được thực hiện bởi ba tập đoàn quân Liên Xô. Cùng ngày hôm đó, Hoa Kỳ đã thả quả bom thứ hai có sức công phá lớn hơn xuống Nagasaki.

Đạo quân Quan Đông, lực lượng chiến đấu chính của Nhật Bản[149][150] bao gồm hơn một triệu quân nhưng thiếu thiết giáp, pháo binh hoặc không quân nên đã hứng chịu thất bại nặng nề chỉ trong vòng chưa đầy hai tuần.[151] Ngày 11 tháng 8 năm 1945, Tưởng Giới Thạch nhận được tin quân Nhật chuẩn bị đầu hàng đã yêu cầu Quốc dân Cách mệnh Quân "tích cực thúc đẩy" tái chiếm các khu vực kiểm soát của quân Nhật, đồng thời ngăn cản Đảng Cộng sản mở rộng vùng kiểm soát đang nằm trong tay quân Nhật.[152] Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật hoàng Hirohito chính thức đầu hàng Đồng minh. Tuyên bố chính thức được ký kết trên thiết giáp hạm USS Missouri vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong một buổi lễ có sự hiện diện của một số chỉ huy Đồng minh, bao gồm cả tướng Trung Quốc Từ Vĩnh Xương.

Quân đội Nhật đầu hàng Trung Quốc

Sau khi quân Đồng minh giành chiến thắng ở Thái Bình Dương, tướng Douglas MacArthur ra lệnh cho tất cả các lực lượng Nhật Bản bên trong Trung Quốc (trừ Mãn Châu), Đài LoanĐông Dương thuộc Pháp ở phía bắc vĩ tuyến 16 ° bắc đầu hàng Tưởng Giới Thạch. Quân Nhật ở Trung Quốc chính thức đầu hàng vào ngày 9 Tháng 9 năm 1945.[153]

Nội chiến tiếp diễn

Người Trung Quốc trở lại Liễu Châu vào tháng 7 năm 1945.Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông năm 1945

So với giai đoạn 1931-1937, tình thế đã trở nên thuận lợi hơn cho phía Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tính đến tháng 10 năm 1945, họ đã kiểm soát một vùng đất đai rộng 2 triệu km² với 120 triệu dân. Về phía Quốc dân đảng, sau khi chiến tranh kháng Nhật kết thúc, họ vượt trội hơn Đảng Cộng sản Trung Quốc về cả quân số lẫn trang bị. Chưa kể việc Hoa Kỳ tiến hành không vận, thủy vận, chuyển khoảng 5 vạn quân Quốc dân Đảng từ miền Trung Nguyên đến canh giữ các vị trí chiến lược trước khi Hồng quân Trung Quốc kéo đến.[57] Tuy nhiên, Hồng quân Liên Xô dưới sự chỉ huy của tướng Malinovsky đã ngăn chặn Quốc dân Quân tiếp cận Mãn Châu và ngầm thông báo với Hồng quân Trung Quốc tiến vào tiếp quản vùng này. Stalin muốn Mao Trạch Đông kiểm soát được ít nhất là vùng phía Bắc của Mãn Châu trước khi quân Liên Xô rút quân hoàn toàn khỏi đây.[154] Hơn thế nữa, Liên Xô còn trao lại toàn bố số vũ khí thu được từ quân Nhật cho Đảng Cộng sản. Mặc dù được trao vũ khí nhưng mãi đến khi một số lượng lớn binh lính Quốc dân đảng đầu hàng và chạy sang hàng ngũ Đảng Cộng sản thì Hồng quân Trung Quốc mới có thể vận hành được số vũ khí này.[153]

Mặc dù Tưởng đã đạt được vị thế ở nước ngoài với tư cách là một nhà lãnh đạo tầm cỡ thế giới, nhưng chính phủ Quốc dân đảng ngày một yếu đi do hậu quả của tham nhũnglạm phát. Trong nhật ký của mình vào tháng 6 năm 1948, Tưởng viết rằng Quốc Dân Đảng đã thất bại, không phải vì kẻ thù bên ngoài mà vì sự thối nát từ bên trong[155] Chiến tranh đã làm suy yếu nghiêm trọng Quốc dân đảng, trong khi những người Cộng sản ngày càng mạnh lên nhờ các chính sách cải cách ruộng đất phổ biến của họ, khiến những người dân nông thôn ủng hộ và tin tưởng họ[156]. Quốc Dân Đảng ban đầu có ưu thế về vũ khí và binh lực, nhưng việc họ bị mất lòng dân, bị điệp viên đối phương xâm nhập, tinh thần kém và sự vô tổ chức đã sớm cho phép những người Cộng sản giành ưu thế trong cuộc nội chiến.

Do căng thẳng ngày càng gia tăng, Hoa Kỳ phải đảm nhận vai trò làm hòa giải viên cho cả đôi bên. Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông tổ chức một cuộc đàm phán tại Trùng Khánh. Các cuộc thảo luận dường như có tiến triển tốt nhưng Quốc Dân Đảng ngay từ đầu đã không tuân theo các thỏa thuận và trên thực tế, khoảng 200 sư đoàn đã được tập hợp gần phạm vi chiếm đóng của Đảng Cộng sản. Ngày 20 tháng 7 năm 1946, Tưởng Giới Thạch đã phát động nội chiến trở lại. Đến giữa năm 1947, cục diện nội chiến lại nghiêng về phía có lợi cho Đảng Cộng sản. Vào ngày 21 tháng 4 năm 1949, thủ đô Nam Kinh bị thất thủ lần thứ hai. Chính phủ Quốc dân đảng lần đầu tiên buộc phải bỏ chạy đến Quảng Châu, cuối cùng dừng lại ở đảo Đài Loan, nơi họ đã thu hồi từ tay quân Nhật bốn năm về trước.[157]

Ký ức chiến tranh

Bảo tàng Tưởng niệm Kháng chiến chống quân xâm lược Nhật Bản của Trung Quốc tại nơi xảy ra Sự biến Lư Câu Kiều

Trong thời kỳ trước đó, Bảo tàng Tưởng niệm Chiến tranh Chống Nhật và các sách giáo khoa của Trung Quốc đại lục cho rằng Quốc dân Đảng đã tránh đụng độ với quân Nhật, liên tục rút lui khiến cho quân đội Đảng Cộng sản phải gánh chịu phần lớn chiến tranh.[158] Tuy nhiên, ngày nay, khi tình hình chính trị thay đổi và hai vùng lãnh thổ Trung Quốc có xu hướng xích lại gần nhau một cách chậm rãi thì nhận thức này đã thay đổi. Sử sách đại lục hiện tại cho rằng các tướng lĩnh của Quốc dân Đảng đã có đóng góp đáng kể vào chiến thắng quân Nhật nhưng vẫn ghi nhận công lao của quân đội Đảng Cộng sản nhiều hơn.[159]

Mặc dù vậy, theo các nhà sử học khác thì lượng Đảng Cộng sản chỉ đóng một vai trò nhỏ trong cuộc chiến. Khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, Quốc dân Đảng đã điều động một lượng lớn quân đội để kháng chiến, còn Đảng Cộng sản Trung Quốc lại tập trung chuẩn bị cho cuộc nội chiến sau khi đánh đuổi quân Nhật.[160] (sự hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản chưa bao giờ thực sự thống nhất vì mỗi bên đều ngầm chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với bên kia một khi đánh đuổi được quân Nhật[111]) Trong một báo cáo mà Chu Ân Lai gửi cho Stalin vào năm 1940 có đoạn đề cập đến cái chết của gần một triệu binh sĩ thì chỉ có 40.000 người là quân của Đảng Cộng sản. Nói một cách khác, tổn thất của Đảng Cộng sản cho đến giữa cuộc chiến nằm trong khoảng 3 phần trăm so với tổng tổn thất của Trung Quốc.[161] Điều này là do quân đội Đảng Cộng sản chỉ có lực lượng nhỏ (92.000 quân vào năm 1937) và đã không tham gia bất kỳ trận đánh nào trong số 22 trận đánh lớn, họ tránh các trận đánh chính quy mà chủ yếu sử dụng chiến tranh du kích. Trong khi Quốc Dân Đảng gửi những binh lính tốt nhất của họ ra tiền tuyến từ trận Thượng Hải thì Đảng Cộng sản lại có xu hướng rút quân chờ thời cơ và chủ yếu chống lại Nhật Bản bằng chiến thuật du kích. Năm 1941, Đảng Cộng sản tuyên bố là họ phải giữ vững sức mạnh và chờ thời cơ tốt nhất để phản công.[162] Các lãnh đạo Đảng Cộng sản phân tích rằng: quân Nhật có ưu thế vượt trội cả về huấn luyện, tinh thần và trang bị, nếu đánh trực diện như quân Quốc dân đảng vẫn làm thì chắc chắn thất bại, vì vậy họ cần phải sử dụng chiến tranh du kích khiến quân Nhật mệt mỏi, đến khi tương quan lực lượng thay đổi có lợi cho thì mới nên đánh lớn[101] Quân Nhật cũng coi đối thủ chính của họ là Quốc dân Cách mệnh Quân trong suốt cuộc chiến[163] nên đã ném bom liên tục thủ đô Trùng Khánh khiến nó trở thành thành phố bị oanh tạc nhiều nhất.[162]

Năm 1972, khi Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông đã diện kiến Thủ tướng Nhật Bản Tanaka Kakuei. Lúc Tanaka bày tỏ lời xin lỗi vì hành động xâm lược Trung Quốc trong quá khứ, Mao Trạch Đông trả lời rằng:

Ngài không cần phải xin lỗi đâu, đất nước của ngài đã giúp đỡ Trung quốc rất nhiều. Ngài có biết tại sao không? Nếu Đế quốc Nhật Bản không khơi mào cho chiến tranh thì làm sao mà quân đội Đảng Cộng sản có thể trở nên hùng mạnh được? Làm sao mà chúng tôi có thể đánh bại Quốc dân Đảng được? Làm sao mà chúng tôi có thể đánh bại Tưởng Giới Thạch được? Chúng tôi rất biết ơn nên ngài không việc gì phải hối hận cả.

— Mao Trạch Đông, [164]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Trung_–_Nhật http://ajrp.awm.gov.au/ajrp/AJRP2.nsf/530e35f7e2ae... http://www.info.dfat.gov.au/info/historical/HistDo... http://warmuseum.ca/cwm/newspapers/operations/chin... http://www.zora.uzh.ch/17710/3/Angry_Monk_Disserta... http://www.chinadaily.com.cn/english/doc/2005-08/1... http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64172/64915/5815... http://www.news.cn/english/special/jnkzsl/index.ht... http://www.360guoxue.com:8080/tushuguan/Uploads/Do... http://www.americanforeignrelations.com/E-N/Embarg... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/1381991/...